Căn cứ vào bút tích và
lời truyền lại qua các đời cho biết nguồn gốc xa xưa của Tổ tiên ta là từ vùng
Lạng Sơn di cư vào Thanh Hóa lập ấp. Theo sử sách ghi được thì từ thời Lý đã có
những cuộc di dân xuống các vùng ven biển khai khẩn đất hoang phát triển nông
nghiệp, bảo vệ bờ cõi. Lúc đó ở vùng ven biển thuộc Trấn sơn Nam hạ (thuộc các làng
Trình Phố: Công Bồi, Phương Trạch, Diêm Điền, Tiểu Hoàng ngày nay) là những
bãi cát hoang vu.
Vào khoảng thế kỷ thứ XVI
có các cụ ở các dòng họ về lập ấp tại các nơi trên. Trong đó có cụ Tạ Đình Ninh
và cụ Lê Lang về lập ấp ở vùng ven biển quận Chân Định. Hai cụ thân kết thành
đôi bạn cố tri. Tục truyền có câu: “Ông Nỉnh, ông Ninh ra đến đầu đình thì gặp
ông Lang. Ông Lảng, ông Lang ra đến đầu làng lại gặp ông Ninh”.
Cụ Ninh khoẻ giỏi nghề làm ruộng. Cụ
Lang tên huý là Lê Phúc Khiên, tên hiệu là Lê Phúc Diễn. Cụ học được nghề làm
thuốc của thày Tầu về chữa bệnh cho dân nên gọi là cụ Lê Lang (lang thuốc).
Nhân dân nhiều nơi nghe tiếng tăm đức độ của cụ nên theo về đông. Một phần do có chính sách khuyến khích khai khẩn đất hoang
của nhà vua, một phần do đức tính cần cù, dũng cảm khắc phục khó khăn, các cụ
đã cùng dân đến lập ấp đắp một con đê ngăn nước mặn từ Ngoại đê ra cầu
Các Già, ra cánh đồng Phương Trạch, cải tạo bãi hoang
vu thành cánh đồng muối và cấy lúa. Khi dân đã đông đúc lập thành làng. Các cụ đề
nghị đặt tên làng là Diêm Điền với ý nghĩa là các cụ
từ làng Diêm Phố tỉnh Thanh Hóa đến và là nơi vừa làm muối vừa làm
ruộng. Cụ tổ họ Tạ được dân làng tín nhiệm cử đứng
đầu làng xã với chức “Thập lý hầu” (người đứng đầu
dân xã).
Chính hai ngôi từ đường
họ Tạ và từ đường họ Lê ở thôn Đoài hiện nay là hai nơi ở của hai cụ khi mới về
đất Diêm Điền và khi hai cụ mất thì hai ngôi mộ cũng được đặt bên nhau (tại xứ
Đông Lang). Nhà tướng địa hồi bấy giờ xem đất nói rằng: “Diêm Điền huyệt tại
Bến Sặt” và có câu ca truyền miệng: “An Khang hữu thị, Tạ thi hữu quan. Đông
Hướng hữu chung, Lê thi anh hùng”, nghĩa là: “Đất An Khang có chợ thì họ Tạ có
quan, Đông Hướng có chuông thì họ Lê anh hùng” phải chăng do đất cát hay do có
chí học hành thành đạt mà làm nên.
Cụ Tạ Đình Ninh sinh
được một người con trai là: Tạ Đình Đô.
Đời thứ 2: Cụ Tạ Đình
Đô vẫn nối nghiệp cha làm ruộng, nuôi con ăn học, được phong chức: quan viên
phụ (có con làm quan to).
Đời thứ 3: Có hai cụ
(con của cụ Đô): cụ Tạ Đình Đoan nối nghiệp ông, cha chăm lo việc đồng ruộng.
Lúc này ở đất Diêm Điền đã nổi lên cụ Tạ Đình Chiêm (còn có tên là Đồng) con
thứ hai của cụ Đô là người hiếu học, có đức, có tài lại có sức khỏe, gặp lúc
đất nước có giặc ngoại xâm, cụ được nhà vua tín cử đi dẹp giặc ở Tây vực với
chức Đô chỉ huy xứ. Do có công được nhà vua phong tước Đồng khê hầu và tặng
thưởng bốn chữ: “Dực Bảo Trung Hưng”. Cụ là một vị tướng văn võ kiêm toàn, có công cứu dân lúc gian nguy và có
chức tước cao nhất ở địa phương thời bấy giờ, nên khi cụ mất được triều đình
công nhận và dân làng suy tôn là Thành Hoàng và thờ ở Đình Làng. Khi làm lại
đình làng còn giữ được tấm bia gỗ có ghi rõ: “Điện tiền đô chỉ huy sứ Tạ Quốc
Công” Đến đời vua Khải Định đã ban sắc chuẩn y việc thờ phụng đức thần Tạ Quốc
Công và cho phép dân làng mở hội hàng năm.
Đời thứ 4: có 3 cụ
Cụ Tạ Đình Thiều (con cụ
Đoan). Cụ Tạ Ngọc Quỳnh và Tạ
Ngọc Lưu (con cụ Chiêm) đều có chức tước và được phong hầu. Cụ Thiều và cụ
Quỳnh thuộc hệ quan văn, cụ Lưu thuộc hệ quan võ.
Đời thứ 5: có 4 cụ
Hai cụ làm chánh đội
trưởng, đều được phong hầu (cụ Lạng và cụ Thống con cụ Quỳnh), cụ Lập đỗ khóa
sinh và cụ Hiến làm cai xã.
Đời thứ 6: có 9 cụ
Bảy cụ có chức tước ở
làng, tổng, huyện trong đó có 3 con của cụ Lạng (hai người được phong tước Nam - cụ Hân và cụ Trọng).
Một người thi đỗ tú tài đầu tiên của họ được gọi là cụ Phát Khoa (cụ Trân)
nhưng cụ không ra làm quan mà về quê làm nghề dạy học để truyền bá kiến thức và
dạy bảo con cháu. Cụ lấy niên hiệu là: Thanh Điền tiên sinh, cụ sinh 5 trai, 5
gái, con cháu cụ sau này phát triển đông, nhiều người có học thức và địa vị
trong xã hội. Hai con cụ Thống: có cụ Vỹ
làm Điển mục sở xứ An Hưng (nay là tỉnh Hưng Yên), cụ Sách làm chánh tổng An
Bồi. Hai con cụ Hiến có cụ Tùng làm cai xã, cụ Tài làm phó đội trưởng và được
phong hầu.
Đời thứ 7: có 25 cụ
Trong số này có 2 cụ mất
sớm (cụ Man và cụ Thức), 2 cụ không có con trai (cụ Man, cụ Bút).
Thời
kỳ này dân cư làng Diêm Điền phát triển ngày một đông thêm, mặt khác do sự bồi
đắp phù sa của 2 cửa sông Lân và sông Trà Lý, bãi biển được bồi rộng ra, nhân
dân các làng phía trong lại di cư ra vùng bãi biển lập ấp. Vốn thuộc dòng dõi
có truyền thống di dân lập ấp nên hai con cụ Vỹ lại đi nơi khác xây dựng cơ đồ.
Cụ Nhân sang làng Diêm Điền lẻ thuộc tổng Hà Cát, cụ Nhượng sang vùng Thanh
Châu – Châu Nhai thuộc huyện Giao
Thủy, Nam
Định (nay là xã Nam Thanh, huyện Tiền Hải). Về văn học và địa vị, cụ Tạ Đình Ru
được phong tước Nam, cụ Tạ Đình Thụy được phong Bá hộ, Phấn dũng tướng quân, cụ
Lộc làm Huyện thừa. Đặc biệt nổi lên có cụ Tạ Đình Trật giữ chức Tiến công thứ
lang – Thuý Vân huyện thừa, được vua Lê Cảnh Hưng năm thứ 3 phong sắc. Về con
cái có cụ Tạ Ngọc Ruyến là người đông con trai nhất (7 người). Con cháu cụ hiện
nay cũng là chi đông nhất (chi 4).
Đời thứ 8: có 42 cụ
Có 1 cụ theo đạo Thiên
Chúa, có 2 cụ là Tạ Đình Liễn, Tạ Đình Liên (con cụ Khoá) ra lập ấp ở Diêm Trì.
Về
văn học và địa vị xã hội: có các cụ Tạ Đình Hiệu, Tạ Ngọc Hạo, Tạ Ngọc Toản
(con cụ Ruyến) thi đỗ tú tài. Cụ Mạo (con cụ Trật) cụ Vĩnh, cụ Đoán (con cụ Ruyến)
cụ Khang (con cụ Can) làm huyện thừa. Cụ Kiêu (con cụ Nhậm) làm chánh đội
trưởng được phong Bá hộ, Phấn lực tướng quân. Cụ Tạ Đình Thuần (con cụ Khóa)
làm Chánh đội trưởng được vua Lê Cảnh Hưng năm thứ 16 phong sắc Phấn lực tướng
quân mệnh tư tráng sĩ. Đặc biệt nổi lên có cụ Tạ Đình Liễn tức Sen (con cụ Rộng)
nhà nghèo, mồ côi cha từ nhỏ ít học, nhưng có trí thông minh, đức tính tốt và
có sức khỏe được cử làm Cai tổng, do có công được trọng thưởng và được phong
tước “Liên hoa nam”. Cụ Tạ Đình Xuân (con thứ hai của cụ Trật) là thày thuốc
giỏi, lại có sức khỏe khác thường. Có lần đi chữa bệnh trên đường về qua nơi có
hội vật ở cửa Trà, cụ xin vào dự vật, cụ đã thắng đô vật to béo và nổi tiếng ở
vùng duyên hải lúc bấy giờ. Bị thua, toán đô vật đuổi theo
định đánh trả thù. Tới gốc cây đa bên đường, cụ nhổ đứt rễ cây đa nổi trên mặt
đất và nói: “Ai muốn về với vợ con thì lui, muốn chết thì tới đây”, thấy vậy
những người kia phải tháo lui. Tiếng đồn cụ có xương sống liền, cụ được cụ Lân
dương hầu Bắc trạch rất yêu mến. Cụ Khuê (con cụ Trật) làm nghề dạy học, sau
được giữ chức Thập lý hầu có tín nhiệm với dân. Về con cái có 5 cụ (đời thứ 8)
không có con trai. Trong đó đáng tiếc là cả 3 con của cụ Tạ Đình Côn (trưởng tộc đời thứ 7)
đều không còn con cháu để nối nghiệp phụng sự tổ tiên.
Phân ra các chi, ngành
Đến đời thứ 7, thứ 8 đã
có nhiều cụ ra đi lập ấp nơi khác, con cháu phát triển ngày càng đông, các cụ
đã phân ra thành từng chi, ngành. Việc phân ra các chi được lập ra từ các cụ
đời thứ 7, những chi đông người có thể chia ra nhiều ngành và lập ra từ các cụ
đời thứ 8, thứ 9.
Theo gia phả ghi lại thì
đời thứ 7 có 25 cụ, nhưng chỉ có 13 cụ còn con cháu đến nay. Trong đó con cháu
cụ Tạ Đình Nghiên chưa tìm về dòng họ nên hiện tại có 12 chi. Cụ thể như sau:
Chi 1A gồm con cháu cụ
Tạ Đình Nhậm. Chi 1 có 2 ngành: con cháu cụ Tạ Đình Toán và con cháu cụ Tạ
Đình Kiêu;
Chi Tiểu Hoàng (Chi 1B) gồm con cháu cụ Tạ Đình Trì (tức cụ Quất).
Chi 2A gồm con cháu cụ Tạ Đình Kỳ ở Diêm Trì;
Chi 2B gồm con cháu cụ Tạ Ngọc Uyển, ở Diêm Trì;
Chi 3 gồm con cháu cụ Tạ Đình Trật, có 3
ngành: con cháu cụ Tạ Ngọc Mạo; con cháu cụ Tạ Đình Xuân ở Thư Điền và con cháu
cụ Tạ Đình Khuê ở Diêm Trì;
Chi 4 gồm con cháu cụ Tạ Ngọc Ruyến, có 6 ngành: con cháu cụ Tạ Đình
Hiệu; con cháu cụ Tạ Đình Tuần; con cháu cụ Tạ Ngọc Vĩnh; con cháu cụ Tạ Ngọc
Đoán; con cháu cụ Tạ Ngọc Hạo ở Lũ Phong và con cháu cụ Tạ Ngọc Toản;
Phần mộ các cụ tổ dòng Chi 4 |
Chi 6A gồm con cháu cụ Tạ Đình Nhân, có 3 ngành: con cháu cụ Tạ Viết
Chức (ở xã Giao Lâm và Giao Xuân); con cháu cụ Tạ Viết Cõn (ở xã Giao Phong);
con cháu cụ Tạ Viết Côn (ở xã Xuân Hà, huyện Hải Hậu, Nam Định). Tất cả các thế
hệ con cháu cụ Tạ Đình Nhân đều theo đạo Thiên Chúa;
Chi 6B gồm con cháu cụ Tạ Đình Nhượng, có 3 ngành: con cháu cụ Tạ
Đình Nhương (ở Nam Thanh); con cháu cụ Tạ Đình Nhâm (ở Nam Hồng); con cháu cụ
Tạ Đình Nhu ( ở Nam Trung);
Chi 7 gồm con cháu cụ Tạ Đình Lộc, có 2 ngành: con cháu cụ Tạ Đình
Nhạ (ở Đông Hoàng); con cháu cụ Tạ Đình Nghinh;
Chi 8 gồm con cháu cụ Tạ Đình Khóa, có 3
ngành: con cháu cụ Tạ Đình Thuần; con cháu cụ Tạ Đình Liễn, con cháu cụ Tạ
Đình Liên (ở Diêm Trì, Tây Phong);
Chi 9 gồm con cháu cụ Tạ Đình Rộng.
Ngoài ra, còn có 11 cụ không còn con cháu kế tiếp.
Đời thứ 9: Có 73 cụ ông
Đời thứ 9 có cụ Tạ
Trường Tú (chi 2A), cụ Tạ Nhiên (chi 2B), cụ Tạ Chinh (ngành 3, Chi 3) ra lập
ấp ở làng Diêm Trì; cụ Tạ Khuông (ngành 4, Chi 5) ra làng Lũ Phong (thuộc xã
Tây Phong hiện nay).
Trong bài vị có cụ Tạ
Công Trinh là trưởng họ nhưng gia phả không ghi tên.
Về
văn học và địa vị xã hội có cụ Tạ Ngọc Thiệu (ngành 1, Chi 3), Tạ Đình Nham
(ngành 2, Chi 3) thi đỗ tú tài. Cụ Tạ Đình Duyên (con cụ Cầu), Tạ Đình Thị (con
cụ Hiểu) làm huyện thừa, cụ Duyên làm huyện thừa huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình
được vua Lê Cảnh Hưng năm thứ 16 phong sắc. Cụ Tạ Xưng (ngành 3, Chi 4) làm cai
tổng đã đấu tranh với lý lẽ xác đáng giữ lại cánh đồng đò cho làng Diêm Điền
khi được yêu cầu chuyển cho xã bên. Cụ Tạ Ngọc Rư (ngành 6, Chi 4) tiến cúng
tiền và đảm nhiệm việc đốc công khi họ xây từ đường, được họ bầu làm tộc hậu.
Khi đương chức xã trưởng, cụ đã có công trong việc đứng ra tổ chức xây chùa Diêm
Điền.
Đặc biệt có cụ Tạ Đình
Tước (ngành 1, Chi 3) là người thông minh, uyên bác được quan Thượng thư Bộ Lại
tiến cử lên triều đình giữ chức Thiếu Khanh ở điện Kim Long với hàm Mậu Lâm
Lang, được quyền tham dự công việc triều đình. Cụ được vua Lê Cảnh Hưng năm thứ
16 phong sắc, cụ là cháu 6 đời nối nghiệp cụ Tạ Đình Chiêm được giữ chức vụ
quan trọng trong triều thời bấy giờ.
Về con cái đời thứ 9 có cụ Tạ Thanh Văn (Chi 9) là người đông con
(7 con trai) và có 4 cụ không có con. Có 5 cụ theo đạo Thiên Chúa.
Đời thứ 10: có 160 cụ
(157 cụ ông)
Trong đó có 7 cụ mất sớm và 31 cụ không có con hoặc không ghi con
cháu. Có 12 cụ theo đạo giáo.
Sau cuộc khẩn hoang ở đất Tiền Châu lập ra huyện Tiền Hải của nhà
doanh điền Nguyễn Công Trứ, con cháu họ Tạ lại phát triển ra vùng ven biển như
cụ Tạ Thân và cụ Tạ Dân (con cụ Xưởng) tiếp tục di cư: cụ Thân ra Tân Lạc xã
Đông Hoàng ngày nay, cụ Dân sang Nam Định, cụ Thảng (con cụ Thực) ra Diêm Trì
và cụ Bằng lại từ Diêm Trì trở về Diêm Điền. Một số cụ do nhà nghèo, đi làm con
nuôi người họ khác như cụ Mão làm con nuôi người làng Tiểu Hoàng, cụ Tùy làm
con nuôi người họ Phạm (thôn Đông), cả hai là con cụ Thông. Cụ Tạ Lập (con cụ
Quyển) làm con nuôi người họ Nguyễn ở thôn Hanh Cù, làng Động Trung (nay là xã
Vũ Quý, Kiến Xương). Con cháu cụ sau này đã trở về dòng họ Tạ.
Về văn học và địa vị xã hội có 24 cụ làm hương lý, 1 cụ làm tuần
huyện thăng thơ lại (cụ Trinh), 2 cụ làm chánh đội trưởng (cụ Sùng và cụ
Tuyết), cụ Tạ Bằng thi đỗ tú tài, 4 cụ thi đỗ nhất trường. Trong đó nổi lên có
cụ Tạ Ngọc Súy là người hiếu học thông minh, khi vua Tự Đức ban ra 10 điều
khuyên dụ dân, mỗi tổng phải chọn cử ra 1 người làm tổng giảng để truyền bá
những điều dụ của vua, cụ đã được chọn giữ chức đó. Cụ là người sớm nghĩ tới
việc duy trì lịch sử dòng họ và đã dày công nghiên cứu, sưu tầm 10 đời về
trước, viết lên quyển Gia phả đầu tiên của họ ta. Nhờ được quyển gia phả đó mà
các thế hệ tiếp sau có cơ sở tra cứu, bổ sung quy tụ được con cháu, giữ được
thứ bậc. Cụ Tạ Ngọc Tiệp là một nhà
giáo có khoa sư phạm tốt, đức tính trung chính được cử giữ chức văn hội trưởng.
Cụ kế tục sự nghiệp của anh viết tiếp gia phả lần thứ hai.
Đời thứ 11: có 257 cụ
(239 cụ ông)
Trong đó có 2 cụ mất
sớm, 47 cụ không có con hoặc không ghi con cái, 12 cụ không có con trai. Có 35 cụ theo đạo giáo.
Về văn học và địa vị xã
hội có 71 cụ làm hương lý như lý trưởng, phó lý, cai tổng, 8 cụ đi lính thời
Pháp thuộc. Đời thứ 11 nổi lên có cụ Tạ Bồi (gọi là cụ Mền), ba lần thi đỗ tú
tài, là người thông minh, tài hoa được bổ nhiệm giữ chức Bang biện bộ cống.
Song tiếc là cụ không có con trai nối nghiệp. Cụ Tạ Ngọc Điến học giỏi thi đỗ
bát khoa và được cử giữ các chức vụ: văn hội trưởng, hương giáp chỉ, lý trưởng
rồi chánh tổng. Khi làm lý trưởng cụ bàn bạc với hương lý trong làng đề xuất
đổi tên làng là Thư Điền với ý nghĩa dân làng không còn làm muối nữa và nền văn
học đã phát triển, có nền văn hiến (làng đã có văn chỉ) và được chấp nhận làng
Diêm Điền đổi là Thư Điền từ đó (năm 1910). Kế tục sự nghiệp của cha và chú, cụ
viết tiếp gia phả lần thứ ba. Cụ cũng là người đông con trai nhất ở đời thứ 11
(10 người con). Cụ Tạ Xuân Mậu xuất phát từ lòng hiếu thảo với tổ tiên và điều
kiện kinh tế gia đình khá giả cụ đã góp thêm tiền và đứng ra tổ chức xây lại từ
đường mở rộng thành 3 cung, sắm sửa thêm đồ thờ. Năm 1936 khánh thành nhà thờ
họ mở hội tế, rước, chèo hát, vui chơi 3, 4 ngày. Cụ còn đứng ra tổ chức quy mộ
tổ tiên về một khu để tiện cho con cháu về thăm viếng mộ tổ hàng năm, cụ bỏ
tiền, gạo nuôi cụ Tạ Đức Bản ba tháng ở tại nhà để chép lại gia phả và soạn các
bài diễn ca ghi nhớ công đức tổ tiên, cụ Mậu là người có nhiều công đối với họ.
Cụ Tạ Xuân Đán với chức lý trưởng đã góp phần vào việc tu sửa lại đình làng. Cụ
bỏ tiền ra nộp thuế đinh cho dân thôn Đoài một năm trong lúc dân làng gặp khó
khăn thiếu thốn.
Đời thứ 12: có 529 cụ
(402 cụ ông)
Trong đó 18 cụ mất sớm,
97 cụ không ghi con cái và 26 cụ không có con trai và có 60 người theo đạo
giáo. Các cụ di cư đi nơi khác sinh cơ lập nghiệp như cụ Tạ Xuân Tuy tức Chi di
cư vào xã Tân Lập, huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An. Cụ Tạ Phúc tức Đản chuyển lên Vĩnh
Yên, cụ Tạ Thủy sang làng Châu Nhai (theo đạo Thiên Chúa). Các cụ đi làm con
nuôi như cụ Tạ Lật làm con nuôi người họ Lê ở huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Cụ Tạ
Sản làm con nuôi người họ Phạm ở làng Phú Nghĩa,
Quỳnh Lưu, Nghệ An. Cụ Tạ Lai làm con nuôi người họ Nguyễn ở Hải Phòng (đổi
tên là Được). Cụ Tạ Oản, Tạ Đài lên vùng Hà Đông và làm con nuôi người họ Vũ
(con cháu cụ hiện nay ở làng Thủ Lệ, Cầu Giấy, quận Ba Đình, Hà Nội).
Về
văn học và địa vị xã hội: từ đời thứ 12 có những nét khác với các đời trước vì
sự phát triển của dòng họ qua 3, 4 thế kỷ và có nhiều sự đổi thay. Trước đây
nhiều cụ đông con, ngay trong 1 gia đình từ con cả đến con út cũng chênh nhau
20, 30 tuổi. Do đó, trong họ lại càng có sự chênh lệch về tuổi đời của người
cùng hàng. Có cụ ở thời trước cũng thọ trên dưới 70 tuổi mà đã quá cố cách đây
hàng nửa thế kỷ, nhưng có cụ hiện nay mới trên dưới 60 tuổi và đang cùng các
cháu chắt đời thứ 14, 15 tham gia công việc xã hội, gánh vác việc họ. Các cụ
cao tuổi, sống dưới chế độ thực dân phong kiến thì làm hương lý
kỳ hào (52 cụ làm hương lý, 9 cụ đi lính thời Pháp thuộc) trong đó có cụ Tạ
Ngọc Lung (gọi là cụ Phán Long) làm thông phán. Về học hành thi cử và dạy chữ
Hán có 114 cụ thi đỗ khóa sinh, 2 cụ đỗ nhất trường. Cụ Tạ Quốc Thưởng hai lần
thi đỗ tú tài gọi là cụ “kép”. Cụ là người đề xuất và góp công sức để xây thêm
trường tiểu học ở làng (khu văn chỉ cạnh đình tổ hiện nay). Các cụ dạy học có
đông học sinh là cụ Tạ Trường Quý nhiều người là anh em con cháu trong họ. Cụ
Tạ Ngọc Lân vừa dạy chữ Hán, vừa dạy chữ Quốc ngữ. Học trò hai cụ sau này có
nhiều người là cán bộ trung cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quân đội. Cụ Tạ Ngọc
Lân còn nối nghiệp ông cha làm thư ký cho họ hơn 30 năm, viết tiếp gia phả lần
thứ 4, dịch từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ. Cụ Tạ Đức Bản dùng thơ ca nói lên nguồn
gốc, công lao đức độ của tổ tiên.
Các
cụ ở lớp trung tuổi được ảnh hưởng của phong trào cách mạng năm 1930, nhiều cụ
đã tham gia phong trào bình dân đấu tranh đòi giảm sưu thuế, chia lại công
điền, … Có cụ tham gia tổ chức thanh niên cách mạng. Theo thống kê có 20 cụ là
cán bộ chủ chốt xã, cán bộ huyện, tỉnh và trung ương, 15 cụ là Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam, 5 cụ đi bộ đội, 2 cụ là liệt sỹ (cụ Tạ Xuân Tỵ và cụ Tạ Nguyên
Sáu). Cả 2 anh em cụ Bẩm và cụ Thiệp người làm xã đội trưởng dân quân, người
làm chủ tịch liên xã. Cụ Tạ Xuân Lan, Tạ Xuân Tỵ được truy tặng Huân chương Độc
Lập hạng Ba.
Đời thứ 12 nổi lên có cụ
Tạ Ngọc Giản tức Vũ Trọng Kiên (tên dùng trong hoạt động cách mạng) tham gia
hoạt động từ năm 1937, trải qua các chức vụ Bí thư Huyện uỷ Tiền Hải, Tỉnh uỷ
viên, rồi làm Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Trưởng Ban tổ chức – cán
bộ của Chính Phủ, cụ bà cũng là cán bộ tổ chức. Cụ được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Độc Lập hạng Nhất và nhiều huân huy chương cao quý khác.
Về đường con cái có cụ
Tạ Hữu Hãn đông con trai nhất (9 người).
Đời thứ 13: có 975 cụ
(579 cụ ông)
Trong đó có 25 cụ mất sớm, 13 cụ đến nay chưa có tin tức, 4 cụ đi
làm con nuôi người họ khác như cụ Tạ Khắc Kiệm làm con nuôi người họ Ngô ở làng
Đông Cao, đổi tên là Ngô Thiểm; cụ Tạ Dân làm con nuôi người họ Nguyễn ở làng
Kỳ Bá, thành phố Thái Bình, đổi tên là Được; cụ Tạ Nhẫn làm con nuôi cụ Nguyễn
Nhận làng Phương Trạch. 18 cụ không có con hoặc không
ghi con cái. Có 109 người theo đạo
giáo.
Các cụ đời thứ 13 cũng
có hai lớp người sống ở hai chế độ xã hội khác nhau. Tuyệt đại đa số gần nửa
cuộc đời sống dưới chế độ thực dân phong kiến, nhưng chỉ có 13 cụ làm hương lý
kỳ hào và cũng chỉ ở làng, xã không có ở tổng, ở huyện. 9 cụ đi lính thời Pháp
thuộc. Còn đa số là những người lao động và phải trải qua thời kỳ đất nước bị
thực dân phát xít thống trị. Năm 1945 (năm Ất Dậu), tỉnh Thái Bình có hơn 2 vạn
người chết đói, trong đó nhiều người và một số gia đình con cháu họ Tạ ở các
nơi, nhất là ở Thư Điền cũng chịu chung cảnh đau thương ấy. Có gia đình 5, 6
người con mà sau năm Ất Dậu không còn ai. Các cụ ở lớp tuổi trên nhà nghèo thì
đều thất học. Cả họ chỉ có 5 người đỗ xéc-ti-fi-ca (tương đương lớp 5 hiện
nay). Do cuộc sống quá thiếu thốn, một số cụ đã rời quê hương đất tổ ra thành
thị, vào đồn điền cao su Nam Bộ hoặc ra mỏ kiếm kế sinh nhai. Cũng do đói khổ,
vất vả lại được tiếp xúc với giai cấp công nhân nên nhiều cụ được giác ngộ,
tham gia phong trào mặt trận bình dân, đấu tranh chống áp bức bóc lột, có người
bị đế quốc bắt bỏ tù, trong đó có cụ bà Tạ Thị Câu (con cụ Phán Long) (1919 –
1944) tham gia hoạt động cách mạng từ những năm 1936, là Tỉnh uỷ viên tỉnh Thái
Bình, bị thực dân Pháp bắt và đã anh dũng hy sinh trong nhà tù của đế quốc, cụ
đã nêu tấm gương trung kiên bất khuất của người con gái họ Tạ.
Từ ngày Cách mạng tháng
Tám 1945 thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhất là sau
công cuộc cải cách ruộng đất, cuộc sống của nhân dân nói chung, của con cháu họ
Tạ nói riêng dần dần được đổi thay, tinh thần thoải mái. Vì vậy ngày nay nhiều
cụ đã trên 80, 90 tuổi nhưng vẫn minh mẫn, vẫn còn tham gia lao động được. Dưới
chế độ mới nhiều người được học hành, có trình độ trung học, đại học. Có 15 cụ
đã và đang tham gia công tác xã hội trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội, … từ cấp xã, phường đến cơ quan trung ương, 43 cụ là cán
bộ, chiến sỹ quân đội nhân dân, công an, bác sĩ, kỹ sư; 50 cụ giữ cương vị chủ
chốt; 61 cụ là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; 16 cụ là liệt sỹ; 38 cụ là
bộ đội; 86 cụ là cán bộ, CNV Nhà nước.
Vinh dự cho dòng họ ở
đời thứ 13 có các cụ: Tạ Ngọc Phách (con cụ Phán Long) tức Trần Độ, tham gia
hoạt động từ thời kỳ bí mật, được kết nạp vào Đảng năm 1940, đã giữ các cương
vị bí thư Phủ ủy Đảng Cộng sản. Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc,
cụ là Chính ủy sư đoàn trong kháng chiến chống Pháp, Phó Chính ủy Bộ chỉ huy Quân
giải phóng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ; Phó Chủ tịch Quốc hội khoá
VIII; là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa III, IV, V và VI;
được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều Huân chương cao quý. Cụ Tạ
Tiếu, tức Tạ Xuân Thu (con cụ Tạ Triệu, một nông dân nghèo) (1916 – 1971), tham
gia cách mạng từ năm 1936, là Bí thư chi bộ Đảng đầu tiên ở làng Thư Điền và đã
giữ các cương vị Bí thư Tỉnh ủy (thời kỳ bí mật); Chính uỷ Khu 10, phụ trách
Mặt trận Tây Tiến; Chính ủy Bộ chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, Tư
lệnh kiêm chính ủy Bộ Tư lệnh Hải Quân, BTL Pháo binh, Học viện Quân sự cấp
cao, đại biểu Quốc hội khoá I, II; được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và
nhiều Huân chương cao quý. Song rất tiếc cụ
đã qua đời khi mới ở độ tuổi 55 giữa lúc đang còn phát huy tài năng và có tín
nhiệm. Cụ Tạ Ngọc Lam tức Trần Văn Khiết là người cùng lứa tuổi cùng hoạt động
với cụ Phách, cụ Tiếu từ những năm 1937 – 1940, cụ là Tỉnh uỷ viên, bị địch bắt
và tù đầy. Sau cụ được Trung ương cử đi hoạt động ở các tỉnh khác và trưởng thành là cán bộ Thanh tra của Chính
Phủ, năm 1984 cụ làm Bí thư Đảng uỷ Ủy ban Thanh tra Chính Phủ. Nhiều cụ ông,
cụ bà là con trai, con gái, con dâu họ Tạ đã và đang là cán bộ trung, cao cấp
của Đảng, Nhà nước và Quân đội hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ
thuật góp phần xây dựng bảo vệ đất nước.
Đời thứ 14: có 1580 ông bà (848 ông)
Trong
đó 40 ông mất sớm, 11 ông không có con. Có 182 người theo đạo giáo,
trong đó có
1 người được phong linh mục.
Đời
thứ 14 cũng có hai lớp người sinh và lớn lên ở 2 thời kỳ chế độ khác nhau.
Những ông đã mất và những ông hiện nay ở độ tuổi 70 - 80 là những người trưởng
thành dưới chế độ thực dân phong kiến nhưng cũng được ảnh hưởng của phong trào
cách mạng, nhiều người được giác ngộ tham gia hoạt động cách mạng, chỉ có 2 ông
làm hương chức cũ, 1 ông đi lính thời Pháp thuộc thì nay đều đã quá cố. Theo
thống kê ở các chi, ngành có 203 ông là cán bộ, công nhân viên chức (trong đó
có 30 ông là cán bộ xã). 99 người là Đảng viên, trong đó có ông Tạ Đình Văn tức
Ngô Đình Văn ở Đông Cao đã tham gia cách mạng từ thời kỳ bí mật, là Lão thành
Cách mạng và đã qua các công tác Bí thư TNCQ huyện, trưởng ban chính trị tỉnh
đội, chủ tịch rồi bí thư huyện ủy. 108 ông tham gia quân đội qua 2 thời kỳ
chống Pháp, chống Mỹ. Trong đó, 41 ông đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc, 11 ông là thương binh, 5 ông đã gắn cả cuộc đời hoạt động trong lực lượng
vũ trang nay là cán bộ cao cấp, ông Tạ Đình Ty người con duy nhất của gia đình
cụ Tạ Trách đã tham gia quân đội qua 2 cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ được tặng thưởng nhiều huân chương. Ngành 2 chi
3 có số người tham gia bộ đội tỷ lệ cao nhất của ngành, trong đó 3 là liệt sỹ,
3 là thương binh. Trên lĩnh vực kinh tế có nhiều ông là giám đốc, phó giám đốc
và nhiều ông hoạt động trên các lĩnh vực khác. Nay có nhiều ông bà là bác sỹ,
kỹ sư có trình độ Đại học, trên Đại học. Các ông bà ở đời thứ 14 tuy chưa có ai
nổi hẳn lên có tiếng tăm được nhiều người biết tới như các thế hệ trước vì
tuyệt đại đa số là lớp người trưởng thành từ sau cách mạng tháng Tám 1945 và
trong trào lưu phát triển chung của xã hội, nhiều ông bà hiện nay còn công tác
đang trên đà phát triển. Có thể nói tuyệt đại đa số các ông bà ở đời thứ 14 là
những người trưởng thành dưới chế độ xã hội mới được học tập, công tác có kiến
thức về xã hội, về cuộc sống, về gia đình tương đối đều nhau (ít có sự quá
chênh lệch so với các thế hệ trước). Chính vì vậy mà từ khi được các cụ đời thứ
12 giao cho nhiệm vụ tu chỉnh gia phả, tu sửa lại từ đường, duy trì nề nếp dòng
họ, một số ông đời thứ 13, 14 về hưu đã nhiệt tình tham gia công việc của họ đã
nghiên cứu bổ sung, tu chỉnh gia phả nâng lên một bước cao hơn mang tính lịch
sử của một dòng họ. Được sự ủng hộ của đông đảo con cháu gần xa về vật chất
cũng như tinh thần đã từng bước tu sửa lại từ đường. Đã biết tranh thủ thời cơ,
sự ủng hộ của trên, của cấp ủy, của chính quyền địa phương đề nghị Bộ Văn hóa
và Thông tin công nhận Nhà thờ họ Tạ là “di tích lịch sử văn hóa” cùng với Đình
Làng và chùa Thư Điền (năm 1990), có ý nghĩa sâu xa và vinh dự lớn đối với một
dòng họ.
Đời thứ 15: có 1724 ông bà (889 ông)
Trong đó có nhiều ông bà
đã trên 60, 70 tuổi; hầu
hết đã có con cháu. Có 120 người là cán bộ, công nhân
viên chức, có 1 người là Tiến sĩ Luật; 28 người tham gia quân đội, trong đó có
8 người là liệt sỹ, 32 người là Đảng viên Đảng CSVN. Có 153 người theo đạo
giáo, có 1 người được phong linh mục và có 2 người tu hành theo đạo Phật, 1 người
được phong là “đại đức”. Các ông bà đời thứ 15 hầu hết là lớp người sinh ra và
lớn lên dưới chế độ XHCN được học hành, được tiếp thu nhiều nét tinh hoa của xã
hội, kinh tế, khoa học kỹ thuật hơn các thế hệ trước. Các ông bà đời thứ 15, 16
và các thế hệ sau sẽ còn tô thêm cho trang sử và truyền thống dòng họ vẻ vang,
xúc tích hơn.
Vì con cháu trong họ
đang công tác sinh sống nhiều nơi, có ngành, có người chưa liên lạc về dòng họ
được. Có nơi, có chỗ chỉ mới dựa trên cơ sở gia phả cũ thiếu nhiều chi tiết nên
phần tổng hợp chưa được đầy đủ. Nhưng phần tu chỉnh gia phả lần này đã gần 20
năm, chúng tôi xin kết thúc tại đây. Phần bổ sung của các chi, ngành sẽ ghi vào
quyển khác, sau này sẽ bổ sung vào gia phả.
* *
*
Trên cơ sở nghiên cứu gia phả về sự phát
triển của dòng họ từ trước đến nay và qua các thời kỳ lịch sử, tổng hợp lại có
thể nêu lên năm truyền thống sau đây:
- Truyền thống thứ nhất là: Cần
cù, dũng cảm, lao động sáng tạo
Căn cứ vào bút tích ghi
lại trong gia phả và sử sách nói về các cuộc di dân lập ấp, khai hoang lấn biển
thấy rằng cụ Sơ Hoàng Thủy tổ họ Tạ về đây khai hoang lấn biển, đắp đê ngăn
nước mặn, cải tạo đồng ruộng, trải qua biết bao gian nan vất vả đòi hỏi phải có
đức tính kiên nhẫn, cần cù, có tinh thần dũng cảm mới vượt qua được. Trong quá
trình cải tạo đồng ruộng phải thể hiện tinh thần tích cực lao động và có trí
sáng tạo mới thành công. Qua bài diễn ca của cụ Tạ Đức Bản cho biết các cụ tổ
xa xưa của họ Tạ đã di cư đến vùng ven biển Thanh Hóa lập ấp và sau đó cụ Sơ
Hoàng Thủy tổ lại từ Thanh Hóa đến vùng duyên hải quận Trực Định lập ấp. Từ các
cụ đời thứ 7 đến nay, đời nào cũng có các cụ đi lập ấp nơi khác, cũng phải trải
qua bao gian truân mới ổn định được cuộc sống. Truyền thống di dân lập ấp, đức
tính cần cù lao động, tinh thần khắc phục khó khăn trong sản xuất đã trở thành
truyền thống của họ Tạ. Chính vì vậy mà ngày nay con cháu họ Tạ đã trở thành
chi, ngành ở nhiều nơi khác.
- Truyền thống thứ hai là: Hiếu
học và có trí thông minh
Họ Tạ có tên ở làng Diêm
Điền này mới qua hai đời, đến đời thứ ba đã nổi lên cụ Tạ Đình Chiêm là người
hiếu học và có trí thông minh, trí dũng song toàn được nhà vua trọng dụng. Tiếp
đến các cụ đời thứ 4, thứ 5 đến nay đời nào cũng có người hiếu học. Có những
việc làm tốt, có những ý nghĩ hay lưu truyền cho các thế hệ mai sau. Ở các thời
kỳ trước tuy chưa có cụ nào đỗ Thám hoa, bảng nhãn nhưng có nhiều cụ đỗ tú tài,
có cụ đỗ 2, 3 khoa nhiều cụ đỗ nhất, nhì trường. Làng Thư Điền trước đây có khu
Văn chỉ thể hiện một làng có nền văn hiến, trong đó có sự đóng góp của các cụ
họ Tạ. Việc xin đổi tên làng từ Diêm Điền thành Thư Điền, việc viết gia phả của
họ để lưu truyền lại cho con cháu mai sau là những việc làm của các cụ có tầm
suy nghĩ sâu, có trí thông minh.
- Truyền thống thứ ba là: Yêu
Tổ quốc, mến quê hương
Cụ tổ đời thứ 3 với chức Đô chỉ huy xứ được
nhà vua xác nhận là người có công giúp nước, cứu dân, được dân làng bái ngưỡng
suy tôn là Thành Hoàng, cụ Tạ Đình Tước đời thứ 9 với chức Thiếu Khanh Mậu Lâm
Lang được quyền tham dự công việc Triều chính cùng với ba cụ được vua Lê Cảnh
Hưng phong sắc đều ghi nhận là người có công với nước, với dân. Dưới chế độ
phong kiến, thực dân từ các cụ làm hương lý, kỳ hào ở thôn xã ít có biểu hiện
đàn áp, ức hiếp dân, có nhiều cụ còn bênh vực quyền lợi cho dân biểu hiện trong
cách mạng tháng Tám 1945 và trong cải cách ruộng đất không có ai để chính quyền
cách mạng phải đưa ra xử trước pháp luật. Tinh thần yêu nước của dòng họ được
thể hiện trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc đã có 220 người tham gia
lực lượng vũ trang, có 69 liệt sĩ và một số người là thương binh, có gia đình
cả 6 anh em đều là bộ đội. Nhiều người là cán bộ hoạt động trên các lĩnh vực
khác từ cơ sở đến các cơ quan trung ương, 276 người là đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nhiều
người được tặng thưởng Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công, 5 người được
tặng thưởng Huân chương Độc Lập, 2 người được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí
Minh.
Tinh thần yêu nước của
dòng họ Tạ còn được kết hợp hài hòa với lòng yêu mến quê hương. Quá trình xây
dựng làng Thư Điền, các cụ họ Tạ với cương vị là người có chức trách trong
làng, nhiều cụ đã góp phần vào việc quy vùng dân cư thành 4 thôn vuông vắn đẹp
đẽ, có cây đa, có đình, có chùa, có phố, có chợ tôn thêm vẻ đẹp của một làng
nông thôn Việt Nam. Khi xây từ đường các cụ đã có những câu đối giáo dục các
thế hệ con cháu về đức độ phong cách làm người, về lòng yêu mến quê hương đất
tổ. Do vậy mà thường từ trước tới nay nhiều người con của họ Tạ dù di cư đi nơi
khác hoặc đi hoạt động nơi xa, đi làm con nuôi người họ ngoài vẫn luôn hướng về
quê hương đất tổ Thư Điền.
- Truyền thống thứ bốn là: Đoàn
kết, giàu tình cảm
Tinh thần đoàn kết và tình cảm của dòng họ ta bắt nguồn từ tình
cảm gắn bó giữa hai cụ Tổ họ Tạ và họ Lê ngay từ khi các cụ về lập ấp ở đất
Diêm Điền. Nay con cháu cụ đã phát triển ra nhiều chi, ngành, ở nhiều địa
phương khác nhau, có phong tục tập quán khác nhau, theo các tôn giáo khác nhau,
có địa vị kinh tế, chính trị khác nhau, có khi chưa hiểu về hàng bậc, về mối
quan hệ gần xa nhưng đều gặp nhau về tình cảm của một dòng họ. Chính vì vậy mà
hiện nay có chi, ngành, có một số người tìm về dòng họ tuy chưa có căn cứ cụ
thể nhưng biết rằng các cụ trước đây đã theo về họ thì nay tiếp tục theo để
được gần gũi nhau hơn. Tinh thần đoàn kết của dòng họ Tạ còn biểu hiện ở chỗ
khi bàn bạc công việc của họ đều bình đẳng tôn trọng ý kiến của nhau, các cụ
hàng trên không bắt hàng dưới phải theo ý kiến của mình. Việc duy trì tuần tiết
trong năm để tập hợp con cháu, xây dựng việc hiếu trong họ là những việc làm
nhằm tăng cường đoàn kết và tình cảm của những người trong họ. Vì những lẽ đó
mà họ đã làm được việc lớn.
- Truyền thống thứ năm là: Tôn
ty, trật tự
Tôn ty trật tự là sự quy
định và phong cách của một dòng họ. “Họ phải theo hàng”. Họ ta đã qua nhiều đời
nhưng đến nay vẫn giữ được tôn ty trật tự vì họ ta có gia phả, giữ được gia
phả.
Từ trước tới nay nhiều
gia đình, nhiều chi, ngành vẫn giữ được phong cách đạo đức trên kính dưới
nhường, trong xưng hô đối xử với nhau. Ngày nay phong cách đạo đức đó được kết
hợp hài hòa với việc đối nhân xử thế trong xã hội, người hàng dưới tuy tuổi cao
vẫn tôn trọng người hàng trên và ngược lại người hàng trên lại đối xử khiêm
nhường với người hàng dưới. Điều đó vừa văn minh lịch sự về phong cách, vừa giữ
được trật tự trong họ. Tôn trọng nhau về tuổi tác, về kinh nghiệm trong cuộc
sống về phong cách đối nhân xử thế là một điều tốt không phân biệt giàu nghèo,
sang hèn, lương giáo.
Năm truyền thống trên đây là do tổ tiên để lại và con cháu các thế
hệ xây dựng nên, tổ gia phả tổng hợp đúc kết lại và đã báo cáo với các cụ, các
ông trong họ nhân dịp giỗ tổ 17/2 năm Canh Ngọ (năm 1990). Mong mọi người trong họ ghi nhớ giữ gìn và phát
huy ngày càng tốt hơn.
Như phần “Lời nói đầu” đã nêu vì thiếu tư liệu,
vì trình độ người biên soạn còn hạn chế và còn có sổ vàng ghi công người có
công với nước, với họ nên ở phần tổng hợp qua từng đời chưa thể nêu hết các chi
tiết (sẽ ghi từng người ở phần gia phả) hết tất cả những điển hình hay, những gương tốt
mà chỉ nêu lên một số tiêu biểu, chỗ nào còn thiếu mong được các Chi, Ngành phản ánh
bổ sung cho Tổ Gia phả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét