Sách có câu: "Nhân bản hồ tổ"
Mọi
vật gốc tự đất trời mà hóa sinh không dứt, người ta gốc tự tổ tôn mà sinh hóa không cùng. Tôn phái của người ta
cũng như mọi vật của trời đất vậy.
Họ ta từ khi gây dựng
đến nay, con con cháu cháu như cây có ngàn cành muôn lá, như nước có lắm lạch
nhiều sông. Sự phát triển không ngừng đó nên ghi chép lại để lưu truyền mãi mãi
về sau.
Dòng họ có bản gia phả
cũng như trời có nhật nguyệt tinh tú, như đất có sông núi cỏ cây để muôn đời
mai sau khi trông thấy hình ảnh trăng sao, sông núi cỏ cây thì biết nguyên lưu
dòng họ còn mãi mãi ở đó.
(Trích lời tựa quyển gia phả do cụ Tạ Ngọc Súy biên soạn lần thứ nhất).
Dân tộc Việt Nam đã trải
qua hơn 4000 năm lịch sử mà ngày nay ai cũng hiểu mình là con cháu Đức Tổ Hùng
Vương là do có sử sách truyền lại.
Họ ta kể từ khi cụ Sơ
Hoàng Thủy tổ cùng với cụ tổ họ Lê về vùng ven biển quận Chân Định lập ấp đến
nay đã hơn 400 năm, con cháu đã đến đời thứ 17, 18 mà vẫn nhận biết được nhau,
vẫn quy tụ về cùng dòng họ là do họ ta có gia phả và giữ được gia phả.
Ngày nay họ ta có được
di sản quý giá này của tổ tiên để lại thì con cháu trong họ mãi mãi ghi ơn cụ
Tạ Ngọc Súy đời thứ 10 đã dày công truy tìm nguồn gốc trên 10 đời về trước viết
nên cuốn gia phả đầu tiên vào năm 1841 (năm Tân Sửu). Bốn mươi năm sau, cụ Tạ
Ngọc Tiệp kế tục sự nghiệp của anh bổ sung và chép lại lần thứ hai. Đến năm 1910,
cụ Tạ Ngọc Điến nối nghiệp cha, chú bổ sung viết tiếp lần thứ ba. Năm 1958, cụ
Tạ Ngọc Lân kế tiếp cha, bổ sung viết lại lần thứ tư và trước khi qua đời, cụ
đã giành thời gian dịch từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ. Cụ Tạ Đức Bản dùng văn thơ
miêu tả nguồn gốc, công lao khí phách của Tổ tiên. Năm 1989, cụ Tạ Ngọc Phách đã
biên soạn và cho in nhiều bản Cây gia hệ họ Tạ. Công lao của các cụ trong quá
trình xây dựng, bổ sung cho cuốn gia phả tạo điều kiện thuận lợi cho việc bổ
sung viết tiếp gia phả lần này.
Song tiếc rằng trước đây
các cụ chịu ảnh hưởng của chế độ phong kiến thực dân với khuynh hướng trọng
nam, khinh nữ nên gia phả cũ không ghi tên các cụ bà, con gái, con dâu. Mặt
khác việc lưu truyền gia phả cũng chỉ hạn chế trong phạm vi cha truyền con nối,
không mở rộng cho con cháu trong họ biết nên Tổ Gia phả gặp khó khăn trong việc
tìm hiểu, xác minh kết luận, bổ sung, tu chỉnh.
Nghiên
cứu gia phả họ ta cho thấy từ đời này qua đời khác có nhiều người có học thức,
có cống hiến công sức vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, quê hương. Ở thời đại phong kiến có 5 cụ
được nhà vua phong sắc, nhiều cụ được phong tước hầu.
Trong cách mạng giải
phóng dân tộc có người sớm giác ngộ hoạt động trong thời kỳ bí mật, có người bị
tù đày, có người hy sinh trong nhà tù của thực dân Pháp. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
có hàng trăm con cháu họ Tạ đã hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc hoặc còn
mang trong người những vết thương chiến tranh. Nhiều người trở thành cán bộ
trung cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội. Có 2 cụ được tặng thưởng Huân
chương Hồ Chí Minh, 5 cụ được tặng thưởng Huân chương Độc Lập.
Trong công cuộc xây dựng
đất nước hiện nay nhiều người là bác sĩ, kỹ sư, là cán bộ khoa học kỹ thuật, …
đang mang tài năng trí tuệ của mình góp phần vào việc xây dựng đất nước, quê
hương.
Hiện nay, con cháu họ ta
từ đời thứ 12 đến đời thứ 17, 18 đang làm ăn sinh sống, công tác ở mọi miền đất
nước và ở nước ngoài và tập trung theo từng chi, ngành ở các làng: Thư Điền
(xã Tây Giang), Diêm Trì, Lũ Phong (xã Tây Phong), Thanh Châu, Châu Nhai (xã
Nam Thanh), Đại Đồng (xã Nam Trung), xã Nam Hồng, Tân Lạc (xã Đông Hoàng), Thị
trấn Tiền Hải, xã Giao Lâm, Giao Xuân, Giao Phong huyện Giao Thủy, tỉnh Nam
Định, v.v … vẫn luôn luôn hướng về dòng họ, vẫn nhớ về quê hương đất tổ Thư
Điền.
Những điều trên đây rất
cần ghi chép tập hợp lại.
Từ
năm 1985, chúng tôi con cháu của Tổ tiên họ Tạ sau khi hoàn thành nhiệm vụ đối
với Tổ quốc, được Đảng, Nhà nước, Quân đội cho về nghỉ hưu tại địa phương, vâng
lời cha bác trong họ, giao cho việc nghiên cứu bổ sung, tu chỉnh lại gia phả
của dòng họ. Đây là một việc lớn đòi hỏi phải công phu vì gia phả gốc có nhiều
chỗ chưa ghi hoặc ghi sơ sài, có những điều cần tìm hiểu kỹ hơn, sâu hơn. Trong
lần bổ sung tu chỉnh lại gia phả lần này, chúng tôi đã cùng nhau nghiên cứu,
tìm hiểu, phát hiện, bổ sung, sắp xếp, biên soạn từng nội dung. Song vì vừa
thiếu tư liệu, phần vì trình độ người viết còn hạn chế, chắc chưa thể đáp ứng
yêu cầu của mọi người trong họ.
Theo quy luật phát triển
của xã hội ngày càng văn minh hiện đại, con cháu họ Tạ ngày càng đông lại được
học hành nhiều hơn, có kiến thức văn hoá, có trình độ khoa học nhận thức về xã
hội, về gia tộc tốt hơn, các thế hệ tiếp sau sẽ bổ sung, tu chỉnh cho gia phả
họ Tạ đầy đủ hơn, chính xác hơn.
Như vậy, cuốn gia phả
này đã được bổ sung, tu chỉnh biên soạn lại và viết lần thứ 5 (1985-2010) để
mọi người trong họ khi xem hiểu đúng nguồn gốc, truyền thống của dòng họ; công
lao, đức độ của tổ tiên; hiểu mối quan hệ giữa các chi, ngành và thứ bậc trong
họ.
Nội dung quyển gia phả
này được sắp xếp gồm 3 phần lớn:
1. Phần thứ Nhất: Nguồn gốc, truyền thống dòng họ
Nội dung phần này nhằm
làm cho các thế hệ hiểu nguồn gốc của tổ tiên từ đâu đến và từ làng Thư Điền
phát triển ra các nơi khác, chắt lọc ra những nét tinh tuý qua từng đời, từng
thời kỳ tổng hợp, khái quát lại thành 5 truyền thống động viên, giáo dục các
thế hệ hãy giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp đó trên các lĩnh vực
của cuộc sống.
2. Phần thứ Hai: Gia phả họ Tạ
A. Cây Gia hệ: từ đời
cụ Sơ Hoàng Thuỷ Tổ đến các cụ đời thứ Tám. Sau đó từ đời thứ 9 đến đời thứ 13
theo từng Chi, Ngành.
B. Gia phả từ đời thứ
Nhất đến đời thứ 8. Còn từ đời thứ 9 đến nay (đời thứ 18) thì ghi theo từng
Chi, Ngành tuần tự từ Chi 1 đến chi cuối cùng. Ghi theo từng đời (kể cả trai,
gái, dâu, rể), ghi từng người tư liệu có tới đâu thì ghi tới đó.
3. Phần thứ Ba: Một số tư liệu về dòng họ
A. Sơ lược lịch sử quê
hương Thư Điền và dòng họ Tạ.
B. Diễn ca kỷ niệm
C.
Danh sách mẹ Việt Nam
anh hùng và danh sách các liệt sĩ của dòng họ
D. Danh sách Trưởng tộc
và Ban trị sự đại tộc qua các thời kỳ.
Tổ
Gia phả
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét