Mảnh đất ấp Diêm Điền ngày xưa cách đây hơn 500 năm,
nay là xã Tây Giang, huyện Tiền Hải trù phú xinh đẹp nằm ở phía Tây của huyện,
Bắc giáp thị trấn, Đông giáp xã Tây Sơn, Nam giáp xã Tây Tiến, Tây giáp xã Phương
Công và xã An Ninh.
Theo lịch sử đất Thái Bình và Tiền Hải là đất biển bồi,
ở đâu có đất có thể khai phá trồng trọt sinh sống được là có người. Giồng đất từ
Cồn trắng Quân bắc qua Công bồi, Cổ Rồng, Trình Nhì, thôn Bắc, Tiểu Hoàng, Đại
Hoàng đã có từ thế kỷ XII, XIII. Ngày ấy dân ở còn lác đác. Các địa danh này chưa
có tên. Cuối thế kỷ XIII, quân Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ II năm
1285, đạo quân của Trần Hưng Đạo do tướng Yết Kiêu chặn thuyền địch không cho
ngược đường sông Hồng về Thăng Long. Nghĩa quân đi qua thấy vùng đất rộng, có cây
quế lớn đã dừng lại nghỉ chân. Chỗ đó thuộc khu vực thôn Bắc hiện nay. Sau để
ghi nhớ công lao to lớn của đức Trần Hưng Đạo, nhân dân Diêm Điền đã dựng ngôi đền
thờ gọi là đền Bắc hay đền Quế (vì có cây quế lớn). Trong đền có tấm bia đá
“Linh từ bi ký” (Bia ghi ở đền thiêng).
Con cháu vị khai quốc công thần triều Lê là Phạm Văn
Xảo được Triều đình cho mộ dân về bãi biển Chân Định khai phá cách đây hơn 500
năm. Những người dân được mộ về khai khẩn muối, làm ruộng lập ra ấp Diêm Điền đầu
tiên ấy là những người họ Tạ, họ Lê và một số người của dòng họ khác. Trước hết
dân ấp Diêm Điền cùng với dân ấp Tiểu Hoàng, Phương Trạch, Công Bồi đắp con đê
ngăn nước mặn từ Ngoại đê ra cầu Các Già, ra cánh đồng Phương Trạch. Có đắp được
đê, dân trong đê mới yên ổn làm ăn, cày cấy được. Theo gia phả họ Tạ và họ Lê
thì cụ Tạ Đình Ninh và cụ Lê Lang là hai người bạn thân. Cụ Ninh khoẻ giỏi nghề
làm ruộng. Cụ Lang tên huý là Lê Phúc Khiên, tên hiệu là Lê Phúc Diễn. Cụ học được
nghề làm thuốc của thày Tầu về chữa bệnh cho dân nên gọi là cụ Lê Lang (lang
thuốc). Nhân dân nhiều nơi nghe tiếng tăm đức độ của cụ nên theo về đông. Sau
khi khai phá thành ruộng thành làng, các cụ đề nghị đặt tên là ấp Diêm Điền để
ghi nhớ các cụ từ làng Diêm Phố tỉnh Thanh Hoá di cư đến và có ý nghĩa ở đây vừa
làm muối vừa làm ruộng. Cụ Ninh được dân làng tín nhiệm cử đứng đầu làng xã với
chức “Thập lý hầu” giống như chức lý trưởng sau này.
Dân cư các dòng họ từ Thanh Hoá, Nghệ An, Nam Định, La Điền, Bổng Điền, … lại tiếp tục đổ về tìm nơi
có đất để khai phá. Theo gia phả các dòng họ và tấm bia đá còn lại ở chùa Thư Điền
hiện nay thì cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII ở Diêm Điền có 13 dòng họ là:
họ Tạ, họ Lê, họ Phạm, họ Hà, họ Tô, họ Lương, họ Đỗ, họ Nguyễn, họ Trần, họ
Chu, họ Vi, họ Cao, họ Bùi.
Năm 1831, đời vua Minh Mạng đặt lại địa giới hành chính,
đổi ấp Diêm Điền thành xã Diêm Điền thuộc tổng An Bồi, huyện Chân Định phủ Kiến
Xương tỉnh Nam Định. Thời Pháp thuộc, ngày 28/11/1894, Toàn quyền Đông Dương sắp
xếp lại các đơn vị hành chính, tỉnh Thái Bình (được lập từ ngày 21/3/1890) có
12 phủ huyện, tên của xã Diêm Điền không còn phù hợp vì biển đã lùi xa không còn
làm muối, mặt khác trùng tên với xã Diêm Điền của Thuỵ Anh, hơn nữa trong xã có
nhiều người học hành giỏi đỗ cao được triều đình nhà Nguyễn phong Tước hầu, Tước
bá có danh tiếng nên các cụ xin đổi là làng Thư Điền (nghĩa là sách và ruộng) gồm
có 4 thôn: thôn Đông, thôn Nam, thôn Đoài, thôn Bắc thuộc tổng An Bồi, phủ Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, làng Thư Điền thuộc xã
Công Trứ huyện Tiền Hải (tháng 3/1949), rồi thuộc xã Tây Giang (năm 1956).
Thư Điền cũng là đất “Địa linh nhân kiệt”, thời kỳ nào
cũng có nhiều người có công với dân với nước và được Nhà nước phong tặng khen
thưởng.
Thư Điền có ba di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng, đó
là:
- Đình Làng (còn gọi là Đình Chính hay là Đình Tổ) thờ
Thuỷ Đức Tôn thần hiệu Quảng Lợi Đại vương và Điện tiền đô chỉ huy sứ Tạ Quốc công
là di tích kiến trúc nghệ thuật xây dựng thời Nguyễn năm 1915. Trong Đình còn lưu
giữ 11 sắc phong (Triều Lê có 5, Triều Nguyễn có 6).
- Nhà thờ họ Tạ thờ các vị có công với làng với nước.
Cụ Tạ Đình Ninh có công xây dựng lập ấp Diêm Điền. Cụ Tạ Đình Chiêm (đời thứ 3
họ Tạ) có công dẹp giặc được phong chức Điện tiền đô chỉ huy sứ tước Đông Khê hầu
cùng 4 chữ “Trung hưng dực bảo”, khi mất được suy tôn là “Thành Hoàng” thờ ở Đình
Làng. Trong Nhà thờ có 4 sắc phong đời vua Cảnh Hưng.
- Chùa Thư Điền: Cây đa ở chùa ngày 01/5/1930 treo cờ
đỏ búa liềm kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động và tuyên truyền cho sự ra đời của Đảng.
Chùa còn là nơi hội họp của cán bộ cách mạng thời kỳ bí mật.
Ngày 30/10/1990, Bộ Văn hoá Thông tin đã ra quyết định số 1214/VHQĐ công nhận: “Đình
Chính, Nhà thờ họ Tạ, chùa Thư Điền là cụm di tích lịch sử văn hoá”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét