Dịch nghĩa:
Bia dựng ngày 3 tháng 3, năm Tự Đức thứ 31 (1872)
Bia ghi ở đền thiêng
Khí thiêng trời đất đã hun đúc nên thánh thần danh tướng.
Từ xưa đến nay và mãi mãi sau này vẫn tồn tại như núi cao sông lớn, không thể
nào mai một được. Đã có khí tiết ấy ắt phải phát dương chiếu sáng khắp nơi. Lấy
công đức lớn che chở, ngăn ngừa mọi tai nạn cho dân, công đức của thần với dân
thật không nhỏ. Vì vậy người dân góp công sức lập nên miếu mạo, bia tượng lưu
truyền, tôn nghiêm sùng kính. Việc đó đâu phải là xiểm nịnh thần.
Vùng muối phía Nam vốn có hai ngôi đình. Đình Bắc thờ Trần triều thượng
tướng quân đại soái thượng phu Hưng Đạo Đại Vương. Đức đại vương là bậc chí thân
của hoàng tộc, trời phú cho ngài đức trung dũng chém Toa Đô, đuổi Thoát Hoan đánh
bại giặc Nguyên, lập nên kỳ công hiển hách, rạng rỡ ngàn xưa ghi trong sử xanh.
Trải bao triều đại xếp bậc thượng đẳng, đến nay không đổi. Triều đình lại đặc
biệt cho xã này làm phu quét dọn đền miếu này. Vậy đâu phải đợi có văn bia này
rồi sau thần mới hiển hách. Đình Nam đã có tiếng tăm ngàn xưa truyền lại. Nơi đây thờ Thuỷ
Đức tôn thần, tôn xưng Quảng Lợi Đại Vương. Đã có sắc triều Lê phong thưởng, đến
triều Nguyễn ta cũng phong tặng ngang với triều Lê.
Còn câu hỏi đình này được sáng lập từ bao giờ. Nay còn
giữ được tấm bia gỗ (mộc bài) có ghi rõ khoảng năm Ngọ năm Mùi để thờ “Điện tiền
chỉ huy sứ Tạ quốc công”, nhưng không rõ tên. Còn việc muốn biết rõ tên ngài là
gì, kê trong sử nước ta ở đời Trần hoặc đời Lý có chức quan ấy. Đã từ lâu, gạch
ngói và mọi vật trong đền đều bị huỷ hoại, nhiều người cảm khái! Căn cứ vào nội
dung sắc phong rằng: “Những năm bị tai hoạ lớn, thần đã đem hết sức lực cứu dân”.
Khoảng năm Nhâm Thân, dân ấp đã hồi phục ruộng vườn. Kỳ mục chức sắc lại cùng
nhau xây dựng mới ba toà đình Bắc (đình Quế), hai cung hoàn toàn mới. Một cung vẫn
để như cũ. Còn đình Nam xây dựng có ba toà thì mới lại hai toà, bái đường bên
ngoài (nhà làm lễ cúng tế) được trùng tu và tô vẽ cho rực rỡ hơn. Từ đó ngôi đình
Nam nổi bật vẻ đẹp nguy nga, hào hùng tráng lệ, đứng sừng
sững giữa làng hiên ngang, đồ sộ. Mặt trước nổi lên tam quan chung đài vọng các,
xa trông ngoạn mục kỳ quan. Trên từng không lâu đài chót vót, chim lượn, mây
bay, ẩn hiện ảo huyền pha nhiều màu sắc. Dưới mặt đất đền đài hùng vĩ, nước hồ
sóng gợn, cá bơi, in bóng lâu đài, pha lẫn áng mây trời hồng biếc.
Quá trình hoàn tất trải thời gian năm, sáu năm, mãi đến
tháng ba năm Mậu Dần mới hoàn thành công trình xây dựng. Mọi khoản chi phí không
phải phân bổ phiền nhiễu đến dân đinh, hết thảy đều thu vào lệ hiếu, làm xong
việc ghi vào bia, xin tôi bài văn. Các cụ kể cho tôi nghe việc làm đình và hỏi
tôi về sự tích vị thần còn chưa rõ ràng được thờ ở đình Nam. Tôi (tên là Bồi Tề) đáp rằng: “Phàm các việc liên
quan đến khảo cổ, đối với chỗ nghi ngờ, ta nên đoán bằng suy lý thôi, chứ vì
thiếu tài liệu thì làm sao nói chính xác được. Nơi tế lễ xuân thu hương khói, có
vị trí xứng đáng trong vũ trụ.
Vị trí của đình, phía Tây Bắc nhiều núi, phía Đông Nam
nhiều sông, tạo nên tư thế thiên nhiên từ xưa vốn có. Nay xem phía Đông Nam là cửa Ba Lạt, rồi cửa Lân đến cửa Trà. Các cửa bể cách
nhau không xa lắm, khoảng trên dưới mười dặm. Đây là một vùng biển muối phì nhiêu
và bền vững.
Ngôi đình Nam thờ thần Nam Hải tối linh, rất rực rỡ là phải. Ngài đã
có công lớn phù Lê, dựa theo năm Thiên Bảo nhà Đường tôn thần làm Quảng Lợi Vương.
Việc tôn sùng cao nhất đã bắt đầu từ đó. Theo đó mà nói thì thứ hạng của thần là
bậc vương chứ không phải là tước công.
Diệu pháp tu tạo đình Nam đã khơi dậy lòng người thêm tôn kính, cách làm bài bản.
Dùng hiếu lệ khơi dậy hiếu tâm, nhất cử lưỡng tiện rất phù hợp lòng ngươi và
thuần phong mỹ tục có tự xa xưa. Còn việc cái đình này có từ bao giờ, cũng không
nên đào sâu.
Minh rằng:
Ao trời mênh mang
Đức thiêng của nước
lâu dài
Ơn trạch thấm nhuần
muôn dặm
Ơn huệ lớn vô cùng
Tiếng thiên thần
hiển hách
Miếu thờcao vòi vọi
Là Nam đình và Bắc
đình
Làm cho mọi người
thấy gần kề
Hãy chiêm ngưỡng
Nam đình
Đài gác cao ngất
Các loại thuỷ tộc đến
chầu
Nào ngao lớn nào
cá voi dài
Thân thì bao la ở
trên đầu
Mênh mông không thể
tả xiết
Sổ thờ cúng ít biết
đến
Vậy tôi xin thuật
lại làm bài văn khắc vào đá.
Người soạn văn bia
là ông Vũ Đăng Thực, nguyên quán Thanh Oai, đỗ cử nhân, Tri huyện Vụ Bản Vân Đình.
Người viết bia là
ông Hà Khánh, một nho sĩ của xã nhà.
Tổng cộng số tiền
thu của lệ hiếu, hương sinh, hương nhiêu, hương hậu là một vạn ba nghìn ba trăm
bốn mươi tám quan.
(theo Tài liệu Địa
chí Thái Bình, tập IV, do Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hoá
Việt Nam và Sở Văn hoá, Thể thao và du lịch Thái Bình xuất bản tháng 02/2009
- tài liệu do ông Tạ Văn Kha (Chi 4)
cung cấp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét