Phần
này do cụ Tạ Đức Bản (đời thứ 12) vâng mệnh tôn trưởng trong họ soạn ra. Khi
chép lại, cụ Tạ Ngọc Lân (đời thứ 12 viết lại gia phả lần thứ Tư) có mạn phép
sửa chữa, bớt bỏ một số chỗ để trọng vẻ tôn nghiêm và có phần thực tế hơn.
Thời kỳ
cụ Bản và cụ Lân biên soạn mới có bài ca ngợi công đức của các cụ từ đời thứ 11
về trước, đời thứ 12 mới có bài văn về cụ Tạ Quốc Thưởng.
Nay
nhân khi tu chỉnh, bổ sung gia phả, Tổ gia phả xin ghi lại các bài văn kỷ niệm đó.
Để con cháu hiện nay và sau này dễ hiểu hơn, để hài hoà công đức của các cụ trước
đây với hiện nay, chúng tôi chỉnh sửa, bổ sung một số câu, chữ trong một số bài
cho phù hợp. Hương hồn các cụ ở cõi vĩnh hằng xin chứng giám và chắc các cụ
cũng vui dạ vì con cháu kế tục các cụ về sự nghiệp tổ tiên để lại.
* * *
Văn kỷ
niệm Cụ Sơ Hoàng Thuỷ Tổ
Sách có
câu : “Nhân bản hồ tổ”
Công
gây dựng muôn thuở còn truyền
Thái
bình hương hoả vạn niên
Diễn
bài kỷ niệm một thiên lưu đề
Đức tổ
xưa vốn quê Giang tả
Tiếng
“Ô Y” Vương, Tạ, Nguyễn, Đào
Á Đông
lừng lẫy xiết bao
Hai nhà
Vương, Tạ giá cao quý quyền
(Họ Vương
sau đổi là họ Lê)
Cờ Đô
hộ một phen thống trị
Xứ An Nam phải lệ thuộc Tàu
Hai ông thâm kết cùng nhau
Phất cờ “Chiêu mộ” bắc cầu Lĩnh Nam
Đường Thái, Lạng quan san chẳng ngại
Chí tang bồng hồ hải xông pha
Trúc
mai sum họp một nhà
Cửa
Sung khẩn trị sơn hà tỉnh Thanh
Làng
Diêm Phố nổi danh từ đó
Áng
tử phần hoa có tốt tươi
Nhà
liền nóc, chợ đông người
Nước
non mới mẻ muôn đời thêm xuân
Trải
năm tháng sinh lan đẻ huệ
Chen
chúc nhau ai dễ đo lường
Đất
đai nguyên cũ ruộng nương có ngần
Dân
đông đúc có phần chật hẹp
Cách
sinh nhai nghề nghiệp quan hoài
Ngư
ông mượn thú cõi ngoài
Tìm
nơi phong cảnh ươm nòi văn minh
Lê
Lang với Tạ Ninh hai cụ
Lại
nối theo chí cũ ông cha
Di
dân lập ấp vùng xa
Vì
con, vì cháu mưu cơ lâu dài
Miền
Lân hải là nơi rộng rãi
Cờ
Chiêu mộ cứng cỏi ra tay
Hai
ông nào ngại chông gai
Đào
sông, lấn biển dùi mài tấm thân
Trải
mưa nắng bao phần mỏi mệt
Cách
vun trồng chẳng tiếc công phu
Chăng
dây cắm mốc trì khu
Đắp
đê giữ nước phá gò bồi sa
Nhà
nổi nóc hàng ba hàng bẩy
Ruộng
thành bờ từng dãy từng khu
Bao
la ruộng đất mịt mù
Cỏ
hoa đua nở, giang hồ thông lưu
Đường
thuỷ đạo đã tiêu chua chát
Lúa
hai mùa lại được phong niên
Cồn
ngoài bãi muối trắng tinh
Có
muối, có gạo dân tình đội ơn
Diêm
Điền xin được đặt tên
Cõi
hoang vu đã dựng lên xóm làng
Cụ
Lê dòng dõi “ấm lang”
Cụ
Tạ nông giới giỏi giang ruộng đồng
Lòng
hai cụ Tấn - Tần hợp một
Nguyện
muôn đời tầm cốt tương thân
Ca
dao bình phẩm mấy vần
Ninh,
Lang hai cụ lần lần gặp nhau (1)
Đức
tổ ta đứng đầu dân tráng
Việc
binh lương giữ khoán đình, điền
Hương
thôn kính ái một niềm
Quan
trên cũng chuộng dân em cũng vì
Giòng
tử đệ nhiều bề tế mỹ
Thềm
chí lan lắm vẻ phi phương
Cháu
con tỏ mặt phi thường
Chói
chang Hầu Bá rỡ ràng non sông
Cụ
trăm tuổi đèn hồng rực rỡ
Xứ
Đông Lang long mã tàng hình
Mới
hay sơn thuỷ hữu tình
Phần phong chính bắc rành rành chân
long
Huyệt Bến Sặt trùng trùng sơn thuỷ
(2)
Mộ tổ bà đất để Hậu Lang
Hình ô hướng bắc rõ ràng
Tạ, Lê hai mộ một hàng thanh thanh
Câu ngạn ngữ : “An Ninh họp chợ
Đất Diêm Điền họ Tạ có quan” (3)
Mới hay sơn thuỷ bão hoàn
Tạ, Lê hai họ sánh hàng cùng nhau
--------------------------------------------------------- |
(1) Tục truyền có câu: “Ông Nỉnh ông Ninh ra đến đầu đình thì gặp ông Lang, Ông Lảng ông Lang, ra đến đầu làng thì gặp ông Ninh”
(2) Nhà Tương Địa có câu: “Diêm Điền
huyệt tại Bến Sặt”
(3) Tục truyền câu: “An Ninh hữu thị, Tạ thị hữu quan. Đông Hướng hữu chung, Lê
thị anh hùng".
(Còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét